Cùng sáng tác
- Hãy tham gia
- Đăng nhập
- Bạn đọc gửi

Thành viên mới
Thành viên năng động
Bạn đọc mới gửi
HAI CÁCH ĐÁNH DẤU TRONG CHÍNH TẢ TIẾNG VIỆT |
![]() |
![]() |
![]() |
TRAO ĐỔI - Chữ và nghĩa |
Hiện nay, người đọc có thể thấy trên báo chí và sách vở tiếng Việt tại hải ngoại hai lối đánh dấu có vẻ trái ngược nhau. Rắc rối hơn nữa là có những tờ báo có một loại đánh dấu ở một số bài và loại kia ở một số bài khác! Là những người sử dụng tiếng Việt hay dạy tiếng Việt, chúng ta hẳn muốn có một sự giải thích thoả đáng về hai cách dùng dấu trong chính tả này. Tựa đề của bài viết này là một ví dụ cho hai cách dánh dấu đó: Dấu sắc nên nằm trên chữ O như trong chữ văn hóa, hay nên nằm trên chữ A như trong chữ văn hoá? Đây là ví dụ trong trường hợp có hai chữ cái nguyên âm; còn trường hợp những chữ có ba chữ cái nguyên âm thì sao? Những luật lệ nào đã ấn định vị trí của những dấu đó? Bài viết này nhằm giải toả những thắc mắc ấy và tìm ra những định luật liên hệ. Một khi đã nhận ra đặc điểm của mỗi phương pháp, người đọc, thầy cô, phụ huynh có thể lựa chọn một phương pháp cho riêng mình. làn, làng, lọng, lạc, lốc, lạch, lập (vần khép) 1.2 Luật đánh dấu thẩm mỹ trong những chữ có hai chữ cái nguyên âm – Vần mở Luật này là nòng cốt của tính “thẩm mỹ”. Những chữ nào có hai chữ cái nguyên âm và là vần mở (không có phụ âm đi sau), dấu sẽ nằm trên (hay dưới) chữ cái nguyên âm thứ nhất, để cho toàn chữ nhìn có vẻ “cân bằng”. Ví dụ: mái, củi, níu, cừu, đói, tụy, thùy, họa, lối, rùa, lìa, khỏe, nghèo, tréo, phải Tính “thẩm mỹ” theo luật này, tuy vậy, vẫn không hoàn hảo. Những chữ như mái, củi, níu, v.v. đúng là “thẩm mỹ tuyệt đối” vì gồm có ba chữ cái và dấu đánh ngay chữ nằm ở giữa, trông rất cân bằng. Nhưng những chữ như khỏe, nghèo, tréo, v.v. lại “kém thẩm mỹ” hơn vì gồm có bốn chữ cái và dấu lại nằm ở chữ cái thứ ba, không cân bằng, thì thẩm mỹ chỗ nào?!! Lại nữa, dến đây, sự việc bắt đầu trở nên rắc rối hơn. Định luật kể trên có hai ngoại lệ đi kèm như sau. 1.2.1 Ngoại lệ thứ nhất: Trong vần mở gồm hai chữ cái nguyên âm, nếu chữ cái thứ nhì là Ê hay Ơ thì dấu cũng nằm trên (hay dưới) hai chữ ấy chứ không còn đi theo chữ cái nguyên âm thứ nhất như thông lệ nữa. Ví dụ: huệ, Huế, huề, thuở Chúng ta có thể thấy ngoại lệ này không thể giải thích tại sao dấu lại nhảy từ chữ cái nguyên âm thứ nhất qua chữ cái nguyên âm thứ nhì khi có sự hiện diện của chữ Ê và chữ Ơ. 1.2.2 Ngoại lệ thứ hai: Nếu chữ cái nguyên âm thứ nhất là U đứng sau chữ Q, hay I đứng sau chữ G, thì dấu phải nằm trên (hay dưới) chữ cái nguyên âm thứ nhì. Ví dụ: quà, quý, già, giờ 1.3 Luật đánh dấu thẩm mỹ trong những chữ có hai chữ cái nguyên âm – Vần khép Theo luật này, trong những chữ có hai chữ cái nguyên âm và theo sau là một hay hai chữ cái phụ âm, dấu sẽ nằm trên (hay dưới) chữ cái nguyên âm thứ nhì. Luật này không có ngoại lệ. Ví dụ: toán, yến, tiền, loạn, loãng, luống, quỳnh, giành, kiếm, cuộc, khuếch, quýt
Luật này không có ngoại lệ. Những chữ nào có ba chữ cái nguyên âm và là vần mở sẽ có dấu nằm trên (hay dưới) chữ cái nguyên âm thứ nhì. Ví dụ: quái, loài, tuổi, diều, giễu, yếu, rượu, khuỷu, quảy, ngoẹo
Theo quy luật cuối cùng của phương pháp này, những chữ có ba chữ cái nguyên âm nằm trong vần khép sẽ có dấu nằm trên (hay dưới) chữ cái nguyên âm thứ ba. Ví dụ: nguyễn, quyền, tuyết, tuyệt, giường, giuộc Luật này đã xoá đi ranh giới giữa chính tả và ngữ âm ở chỗ là trong các chữ nguyễn, quyền, tuyết, tuyệt chữ U là chữ tạo vần (đọc như là một bán nguyên âm), trong khi trong các chữ giường, giuộc, chữ I chỉ là chữ tạo thanh, được dùng để biểu thị một phụ âm khi kết hợp với chữ G. Nói khác đi, đối với hai chữ U và I, luật này chỉ tính đến chữ cái mà không phân biệt giá trị ngữ âm của hai chữ ấy. 1.6 Nhận xét chung về phương pháp thẩm mỹ Những đặc tính thấy được ở phương pháp đánh dấu thẩm mỹ có thể tóm tắt lại như sau: a. Phương pháp này bao gồm 5 quy luật chính và 2 ngoại lệ. b. Cách đánh dấu phải căn cứ vào hai loại kết cấu của vần, vần mở hoặc vần khép. c. Phương pháp này lúc thì dựa vào chữ cái, lúc thì dựa vào ngữ âm. d. Khó tìm ra những giải thích thoả đáng vì sao dấu lại nhảy từ chữ cái này sang chữ cái khác khi kết cấu của chữ cái thay đổi. 2. Phương pháp đánh dấu dựa theo ngữ âm Phương pháp thứ hai này tương đối mới mẻ. Như tên gọi theo chương trình VNI, phương pháp này căn cứ hoàn toàn vào ngữ âm. Nói cách khác, phương pháp đánh dấu ngữ âm dựa vào cách cấu tạo của vần (cách nói hay đọc chứ không phải chữ cái). Theo cách này thì chữ văn hoá là cách đánh dấu đúng, tương phản với cách đánh dấu thẩm mỹ là văn hoá. Để hiểu được phương pháp đánh dấu ngữ âm, chúng ta cần nhìn lại kết cấu của vần tiếng Việt trước khi tìm hiểu luật đánh dấu theo phương pháp này như thế nào. 2.1 Kết cấu của vần tiếng Việt Có hai loại vần chính: Vần chỉ chứa một nguyên âm gọi là vần đơn và vần chứa một nguyên âm kèm theo một hay hai bán nguyên âm gọi là vần phức (hai loại vần này có thể là vần mở (không có phụ âm theo sau) hay vần khép (có phụ âm theo sau), nhưng điều này không ảnh hưởng tới cách đánh dấu trong phương pháp ngữ âm). Những bán nguyên âm trong tiếng Việt được biểu thị qua những chữ cái A, I, Y, O, U, Ư. Những chữ cái này cũng có thể biểu hiện nguyên âm cùng với những chữ cái còn lại như Ă, Â, E, Ê, O, Ô, Ơ. Kết cấu của hai loại vần chính được trình bày như sau: a. Vần đơn: nguyên âm (a, e, ê, i/y, o, ô, ơ, u, ư) b. Vần phức: Loại vần này chia thành bốn loại nhỏ tuỳ theo hai yếu tố là (i) có một hay hai bán nguyên âm đi theo nguyên âm chính, và (ii) vị trí của những bán nguyên âm ấy.
2.2 Luật đánh dấu theo phương pháp ngữ âm Theo phương pháp ngữ âm, chỉ có một định luật duy nhất, không có ngoại lệ: Dấu giọng phải nằm trên (hay dưới) chữ cái biểu thị một nguyên âm chứ không bao giờ nằm trên (hay dưới) chữ cái biểu thị một bán nguyên âm. Định luật nói trên trùng hợp với tất cả những định luật và ngoại lệ của phương pháp đánh dấu thẩm mỹ, ngoại trừ luật (1.2). Thật ra, tất cả những luật còn lại của phương pháp thẩm mỹ cũng vô hình chung mà dựa vào ngữ âm mà thôi. Cả hai phương pháp đánh dấu gần như giống nhau, chỉ khi nào gặp kết cấu theo luật (1.2) mới trở nên khác nhau. Luật đánh dấu ngữ âm, tuy vậy, cũng không hoàn toàn đơn giản. Luật này đòi hỏi người nói hay viết phải biết trong những vần phức, chữ cái nào là nguyên âm, chữ cái nào là bán nguyên âm, để đánh dấu cho đúng. Dù là người Việt nói tiếng mẹ đẻ, nếu không có một chút hiểu biết về ngữ âm, đôi khi chúng ta cũng khó xác định được điều này. Nói nôm na một chút, trong một vần phức, khi đọc lên, nguyên âm sẽ nghe rõ và dài hơn bán nguyên âm. Dấu giọng vì thế sẽ đi theo nguyên âm ấy. Nếu chúng ta dạy cho các em nhỏ cách đánh dấu này từ lúc đầu, phương pháp này cũng sẽ trở thành một thói quen mà không cần biết đến luật lệ, y như phương pháp thẩm mỹ vậy. 2.3 Một vài ví dụ về phương pháp đánh dấu ngữ âm Phương pháp đánh dấu ngữ âm có thể giải thích được vì sao dấu giọng nằm ở một chữ cái này mà không là chữ khác, hoặc vì sao dấu lại nhảy từ chữ cái này sang chữ cái khác trong những vần mà thoạt nhìn trông có vẻ giống nhau.
2.4 Nhận xét chung về phương pháp ngữ âm Những đặc tính thấy được ở phương pháp đánh dấu ngữ âm có thể tóm tắt lại như sau:
3. Phần kết luận: Nên dùng phương pháp đánh dấu nào? Theo TVVN. |